Tìm kiếm bài trong Blog này

Thứ Năm, 17 tháng 3, 2011

Leslie Cheung - Trương Quốc Vinh

Nguồn: brns.com
Người dịch: whitedaisy

Những trang trước tôi đã dành lời ca ngợi về bờ môi nũng nịu của một số ngôi sao nữ mà tôi yêu thích, tôi nghĩ sẽ chỉ công bằng khi làm điều tương tự cho Leslie! Cái vẻ hờn dỗi cau có thường trực của anh trong Days of Being Wild là tuyệt đẹp – dù nó cũng chẳng thể tự sánh được với sức quyến rũ say đắm của điệu nhảy cha-cha-cha ngắn ngủi trước gương (hình ảnh này đã được nhại lại một cách tuyệt vời bởi Francis Ng Ngô Trấn Vũ trong phim Those Were the Days). Leslie, bản thân anh là một chuyến hành trình cần được khám phá. Leslie đã dám công khai thừa nhận giới tính thật của mình – Còn ai khác có đủ can đảm tổ chức một tour diễn âm nhạc, khoác lên người những bộ trang phục mang hơi hướng nữ tính, và hát ca khúc “I am What I am ?”. Hay câu nói yêu thích của tôi từ anh, khi anh đang quay phim Happy Together trong khi Tony Lương Triều Vỹ mải ca cẩm vì chuyện phải đóng cảnh làm tình với anh hết take này sang take khác - “Giờ thì cậu đã hiểu cảm giác của tớ trong suốt những năm qua rồi đấy!”


Với những nam diễn viên chuyên thủ diễn vai chính lãng mạn, điều này gần như là một “cuộc tự sát” nghề nghiệp – nhưng nó chẳng ảnh hưởng gì đến Leslie. Anh quá nổi bật đến mức đã trở thành một đế chế tại Hong Kong (và cả ở những phần lãnh địa nói tiếng Hoa còn lại), anh quan trọng hơn giới tính của anh, anh quan trọng hơn bất kỳ ai khác ở Hong Kong – một ngôi sao ca nhạc khổng lồ trong suốt hai thập kỷ và một trong những ngôi sao bảo chứng cho phòng vé lớn nhất trong suốt nhiều năm liền. Mọi người – bao gồm những bà ngoại, bà nội cùng những cậu cháu trai, cô cháu gái tuổi teen, và thậm chí là dưới tuổi 13 – tất cả đều yêu quý Leslie.

Cũng như rất nhiều ngôi sao khác, Leslie khởi nghiệp từ một cuộc thi tìm kiếm tài năng – anh đoạt giải nhì trong cuộc thi hát Asian Singing Contest cuối thập niên 70. Vào năm 1978, anh ra mắt album nhạc đầu tay. Anh cũng cho ra mắt bộ phim đầu tiên vào năm 1980 (mà theo như lời Leslie tự miêu tả về cuốn phim đầu tiên này, Erotic Dream of the Red Chamber, là “một thảm hoạ, một bộ phim cực kỳ rẻ tiền, vô cùng khiếm nhã” trong cuộc phỏng vấn với tác giả của cuốn Hong Kong Babylon (1997), Fredric Dannen). Hơn hai chục năm kế tiếp, anh đã đồng thời theo đuổi cả hai sự nghiệp – xuất hiện trong nhiều bộ phim cũng như ra mắt đều đặn những album nhạc chất lượng. Tôi muốn nói rằng “Red” là album xuất sắc nhất của anh. Anh cũng đã hát ca khúc chủ đề cho nhiều bộ phim anh góp mặt (bao gồm ca khúc “Chase” cho phim hài He's a Woman, She's a Man; hay bài ca chủ đề cho phim The Bride with White Hair, ca khúc mở đầu phim A Chinese Ghost Story và bài ca kết thúc của Days of Being Wild. Anh từng phát hành một album tổng hợp các ca khúc từ những bộ phim này, bên cạnh các bài hát trong các phim Farewell My Concubine, Temptress MoonThe Phantom Lover).



Những năm tháng khởi đầu, Leslie làm việc cho hãng TVB và tham gia một số bộ phim cho đến nay đã gần như bị quên lãng – Teenage Dreamers, Energetic 21, The Drummer, First Time, Little Dragon Maid Crazy Romance. Mặc dù vậy anh vẫn có một tác phẩm nhỏ gây tranh cãi với tựa đề Nomad (1982) và được đề cử giải Nam Diễn Viên Xuất Sắc Nhất cho vai diễn này.

Bẵng đi một thời gian, hầu như ai nấy đều đã phỏng đoán rằng rốt cuộc sự nghiệp diễn xuất của anh ấy sẽ chẳng bao giờ cân bằng được với những thành công bên mảng âm nhạc. Cùng với gương mặt trẻ thơ tươi sáng (mà anh vẫn giữ gìn được qua 15 năm sau), anh bị mắc kẹt trong một loạt phim hài dành cho thanh thiếu niên – nhưng rồi đến năm 1986, anh đã có một cuộc công phá lớn khi John Woo Ngô Vũ Sâm tuyển anh cho vai diễn cậu em trai của Địch Long trong tác phẩm thể loại hành động xã hội đen A Better Tomorrow. Mặc dù tuyến nhân vật của anh không vững vàng và quan trọng như tuyến vai của Địch Long, Châu Nhuận Phát song bức chân dung về người quân nhân trẻ tuổi anh hùng và đầy lý tưởng anh tạo nên đã cực kỳ thành công, bộ phim này cũng hoàn toàn là một thắng lợi ngoạn mục. Kể từ thời điểm đó, Leslie đã bắt đầu trên đà tiến, sáng tạo nên hàng loạt vai diễn tinh tuý trong nhiều tác phẩm phim kinh điển.



Một năm sau, cùng với vai diễn trong bộ phim tuyệt vời A Chinese Ghost Story, Leslie đã chạm tới đỉnh cao của hình tượng “nam chính lãng mạn” tại HK và hình tượng này của anh chỉ ngày một trở nên đậm đà và sâu sắc hơn cùng với những tác phẩm như A Better Tomorrow IIRouge. Một điều tôi rất yêu thích ở Leslie đó là ý chí luôn biết nắm lấy các cơ hội của anh, và vào năm 1990, anh đã hoá thân thành một nhân vật tự yêu bản thân, suy đồi nhưng vẫn đầy quyến rũ – vai nam chính của tác phẩm Days of Being Wild. Đây là một vai diễn thử thách – không phải loại nhân vật dễ được thương mến, nhưng theo cách nào đó anh ta vẫn gợi được sự cảm thông nơi khán giả – và rằng Leslie đã thật xuất chúng trong bộ phim ấy – thật xứng đáng với giải thưởng Nam Diễn Viên Xuất Sắc Nhất anh giành được.

Giai đoạn 90s cũng đánh dấu một số vai diễn thương mại tuyệt vời của Leslie: như bộ phim hài lẫn lộn về giới tính He's a Woman, She's a Man; và phần tiếp theo Who's the Woman, Who's the Man? ra mắt hai năm sau đó. Rồi những Once a Thief, The Bride with White Hair, The Phantom Lover, 2 phần trong loạt phim hài chào mừng Năm mới ăn khách All's Well Ends WellAll's Well Ends Well Too, The Eagle Shooting Heroes, It's a Wonderful Life, Shanghai Grand, The Chinese Feast, và Tri-star.


Một lần nữa bên cạnh những thành công thương mại trên, anh vẫn tìm cách dung hoà chúng bằng sự hiện diện của những tác phẩm nghiêm túc, chứa đựng các yếu tố dữ dội và những thử thách khó lường. Năm 1993, anh phải học tiếng Quan Thoại để xuất hiện trong một tác phẩm do Đại lục Trung Quốc sản xuất: Farewell My Concubine – vai diễn này giúp anh nhận về hàng loạt lời tán dương và công nhận cho sự khắc hoạ độc đáo về một nghệ sĩ Kinh Kịch Bắc Kinh (những bộ phim của Đại lục khác có sự xuất hiện của anh là Temptress Moon (1996) và A Time To Remember hay còn có tựa Red Lover (1999)). Trong Ashes of Time (1994) anh phải sống trên sa mạc trong nhiều tháng trời để thực hiện những thước phim đẹp đẽ, hoang phế cùng đạo diễn Vương Gia Vệ (một lần nữa anh lại tự thử thách chính mình khi nhận diễn một dạng vai khác xa với hình tượng “cậu bé xinh đẹp” thường ngày), còn trong Viva Erotica! anh lại phô bày phần cơ thể trần trụi trong phân cảnh đầu tiên, và trong Happy Together anh trải qua nhiều ngày lang thang tại đất nước Argentina để đóng vai một gã tình nhân đồng tính vừa đểu cáng vừa khốn cùng.


Trong cuốn sách Hong Kong Babylon, anh đã nói rằng “Tôi muốn kiểm soát chất lượng nghệ thuật của tôi. Đó là lý do vì sao tôi chỉ nhận tối đa ba bộ phim một năm, và trong một thời điểm chỉ chuyên tâm cho một vai diễn”, không nghi ngờ gì, bản thân người con trai này đã sở hữu một sự nghiệp điện ảnh đáng kinh ngạc. Giai đoạn những năm cuối của anh bao gồm một bộ phim thương mại với nội dung hấp dẫn hợp tác giữa Nhật Bản và Hong Kong: Moonlight Express, một tác phẩm giản dị kinh phí thấp The Kid, cũng như bộ phim đen tối về đề tài môn thể thao bắn súng và chứng tâm thần giết người Double Tap, và bộ phim mang hương vị mùa hè Okinawa Rendez-Vous. Năm 2000, Leslie cũng tự đạo diễn một phim ngắn mang thông điệp phòng trừ thuốc lá vì cộng đồng, với sự tham gia của chính anh, Mai Diễm Phương, Mạc Văn Uý và Vương Lực Hoành diễn xuất trước ống kính: From Ashes to Ashes.



Con người Leslie Trương Quốc Vinh dường như luôn sở hữu một thứ phẩm chất bi kịch nào đó hiện diện trong từng chi tiết góc cạnh âm nhạc, phim ảnh và giữa đời thực của anh, vào ngày 1 tháng Tư năm 2003, anh đã diễn màn trình diễn sau cuối cùng óc khôi hài cay độc, khi anh như muốn nói với cả thế giới rằng đây chỉ là một trò đùa – trò đùa ngày Cá tháng Tư, và rằng mọi điều tuyệt luân hiện hữu trong cuộc đời này cũng chỉ là một trò đùa đau thương và cay đắng. Trong bộ phim cuối cùng của anh, bộ phim ma tâm lý đặc sắc Inner Senses (2002) anh cũng đứng trên mép rìa của một toà nhà cao ốc, đối diện với nỗi sợ và căn bệnh trầm cảm... nhưng khác với phim ảnh, nơi anh nhận được sự tha thứ và cứu rỗi để bước ra khỏi vực thẳm, thì lần này, không có ai ở đó để tha thứ cho anh – không ai ở đó để thể hiện lòng bao dung và sự cảm thông chia sẻ.



Một thành phố đã phải chịu đựng vết thương không thể gội rửa. Anh còn hơn cả một huyền thoại – anh được yêu thương – anh là “Gor Gor” (Ca Ca) của mọi người. Có điều gì đã vượt lên trên cả âm nhạc của anh, có điều gì đã vượt lên trên cả những thước phim anh diễn để kiến tạo nên sức ảnh hưởng truyền cảm này – đó đơn giản là chính bản thân anh – Cá tính mãnh liệt của anh, sức quyến rũ của anh, nụ cười lém lỉnh, những lần anh bùng nổ – gương mặt trẻ thơ không già đi cùng năm tháng, tất cả đã biến anh thành đứa con trai yêu dấu của Hong Kong. Và rằng cũng chẳng hề gì nếu thỉnh thoảng anh cũng cáu gắt và có thể khó gần, hoặc anh biến mất khỏi tầm nhìn của công chúng trong một thời gian dài – như việc họ đều biết anh đồng tính mà có vấn đề gì đâu – anh vẫn là của riêng họ, và họ yêu thương anh. Anh vẫn là hình tượng nam chính lãng mạn bậc nhất của Hong Kong cùng khoé môi hờn dỗi, đường nét khuôn mặt duyên dáng sáng trong, đôi mắt anh có thể tràn ngập niềm hoan hỉ, nhưng cũng có thể trở nên xa xôi như ánh mắt của một dĩ vãng nhân tình. Vào phút cuối cùng, không còn điều gì còn ý nghĩa đối với anh: danh tiếng, những lời xu nịnh hay những thành tựu vinh quang – anh lạc lối, cô đơn và trống trải từ thẳm sâu bên trong, và vì vậy anh chọn cách kết thúc.

***

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét