Thứ Hai, 29 tháng 8, 2011

[Vietsub] Twins & Leslie Cheung - Anh Đỏ Nhất



Clip nhạc Anh Đỏ Nhất (你最红 You are the Raddest) Twins hát, Ca Ca làm khách mời - nhắng không chịu đc, làm như hai bả lần đầu được nhìn thấy giai đẹp xD. Video được ra thực hiện vào đầu năm 2003, tức là lúc đó Ca Ca đã 46 tuổi - không hổ danh trai trẻ mãi không già *Q*

Vietsub do các bạn Twinsfan bên Twinszone làm hôm 1/4/2011 để tưởng nhớ Ca Ca.






Chú thích: Màu đỏ đối với người Hoa ngoài ý nghĩa tượng trưng cho sự may mắn và niềm vui còn mang hàm nghĩa là "nổi tiếng". Hai nàng Twins cũng tâng bốc "Chú Ba" quá xá !

Thứ Năm, 25 tháng 8, 2011

Leslie và Brigitte làm khách mời cho buổi tọa giảng phim "Ashes of Time" tại Đại học Hong Kong

1 bài dịch mới, đây là bài blog tường thuật cá nhân của 1 bạn bên HK.

Ngày 29 tháng Ba, năm 1999












Part 1

Leslie và Brigitte Lin (Lâm Thanh Hà) được mời đến nói chuyện tại buổi giảng tọa về bộ phim “Ashes of Time” (Đông Tà Tây Độc) tại Đại học Hong Kong vào ngày 29 tháng Ba 1999. Buổi giảng tọa dự định bắt đầu vào lúc 5 pm nhưng đến 4 pm đã có khoảng 30-40 người phải xếp hàng đứng bên ngoài giảng đường, rõ ràng là họ đều bị thu hút bởi hai đại minh tinh. Buổi nói chuyện được tổ chức tại giảng đường luận văn của trường, với sức chứa khoảng 500 người, và nó đã được lấp kín trong ngày hôm đó. Leslie và Brigitte đến sau 5 pm một chút và họ được chào đón bằng những tràng pháo tay vang như sấm dậy.


Buổi nói chuyện được chủ trì bởi ông Abbott, Chủ nhiệm Khoa Liên Đới Văn Học. Leslie nói rằng giữa anh và Abbott có mối thân tình cũ, nhưng sau đấy Abbott đã cải chính là “còn hơn thế nữa”. Thực tế ông từng là anh rể của Leslie , và họ chưa gặp lại nhau sau gần 30 năm. Cô phiên dịch viên liền nói, đây thực sự là một dịp đoàn tụ gia đình. Buổi nói chuyện sử dụng hai ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Trung (với 1 người phiên dịch sang tiếng Anh) vì Abbott không nói được trôi chảy tiếng Trung và còn có một phụ nữ nước ngoài trên sân khấu (mà tôi đã quên mất bà là ai). Các vị khách mời được thoải mái nói thứ ngôn ngữ nào mình cảm thấy thoải mái. Leslie thành thục cả hai thứ tiếng nên anh thường xuyên chuyển một cách êm ái từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ kia trong suốt buổi nói chuyện, trong khi Brigitte chỉ nói tiếng Trung. Buổi giảng tọa được chia thành ba phần, phần đầu nói về bức tranh khái quát của nền điện ảnh Hong Kong, phần thứ hai chia sẻ những kinh nghiệm làm việc giữa họ và đạo diễn Wong Kar-wai (Vương Gia Vệ) và phần thứ ba là phần hỏi & đáp.


Sau sự giới thiệu ngắn về hai vị khách mời, buổi giảng tọa bắt đầu. Ban đầu họ được hỏi về kinh nghiệm khi phải đối mặt với những khó khăn của nền công nghiệp phim ảnh. Brigitte được hỏi trước nhưng cô có một chút e thẹn nên đã để cho Leslie trình bày. Leslie đã nói về những lí do dẫn đến sự suy thoái của nền công nghiệp điện ảnh trong nước, phần lớn là những thông tin chúng ta đã được đọc hoặc thấy trên báo chí và phỏng vấn truyền hình. Lấy ví dụ, anh nói rằng nền công nghiệp phim của chúng ta đang gần như “hấp hối” và nạn in sang lậu tràn lan, mặc dù đây là nguyên nhân lớn, nhưng nó không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn tới sự suy sụp này. Nguyên nhân sâu xa hơn là một số nhà làm phim địa phương chỉ biết và nghĩ đến chuyện kiếm tiền nhưng không quan tâm đến chất lượng hay có lòng làm ra những bộ phim hay. Thế nên người dân Hong Kong dần dà thích xem phim Hollywood hơn, với những sản phẩm nghiêm túc và nhiều chất lượng hơn. Anh cũng thừa nhận việc lồng tiếng phim của Hong Kong đang thực sự trở nên “lạc hậu”. Có rất nhiều người trước đây từng làm việc cùng anh nay đã phải bươn chải mưu sinh bằng nghề lái taxi hay thợ nề. Nhưng anh cũng tin tưởng rằng vẫn còn có những tác phẩm tốt, những con người tài giỏi vẫn còn đó và anh hy vọng vào một tương lai gần họ sẽ chấn hưng sinh khí cho nền công nghiệp.


Về câu hỏi anh có dự định sang Hollywood không, anh đã nói rằng chuyện này không dễ dàng như nhiều người vẫn nghĩ, Hollywood là một liên minh lớn. Và quan điểm của Hollywood thì thường xuyên như thế này, “Ồ, Leslie, tôi biết anh rất rõ, tôi đã xem rất nhiều phim hay của anh. Nhưng anh có biết đánh đấm không ? Anh có thể múa cước đi quyền không ?” Rồi anh nói về Chow Yun-fat (Châu Nhuận Phát). Anh nói anh khá thất vọng với các tác phẩm của Chow tại Hollywood. “Ở đây anh ấy là một siêu sao, là “niềm hy vọng của châu Á” ” Leslie đã nói như vậy. (Tôi có đọc nhiều bài báo chỉ trích Leslie “ghen tị” nên mới chê bai Chow. Đấy là nhận định không công bằng, bởi tôi nghĩ điều anh muốn nói ở đây là một nam diễn viên tầm cỡ như Chow thì phải xứng đáng với những điều tốt đẹp hơn, ít nhất kịch bản phim cũng phải tốt hơn các “siêu phẩm châu Á-Hollywood” ấy. Anh không thích nhìn Chow bị hủy hoại bởi Hollywood).


“Steven Spielberg hiện đang chuẩn bị làm một phim về Geisha vào năm tới. Họ đã nhắm Maggie (Trương Mạn Ngọc) và đưa ra lời đề nghị tốt, nhưng nữ diễn viên chính đóng vai Geisha lại là một người Hàn Quốc, vậy đấy, họ để người Hàn đóng vai Geisha – một biểu tượng truyền thống thuộc về Nhật Bản … Tôi nghĩ điều này khá nông cạn. Nhưng đấy là góc nhìn của họ, đó là quan điểm của họ.” Anh nói người Mỹ thường xuyên trộn lẫn mọi người châu Á với nhau. Michelle Dương Tử Quỳnh, người vừa trở thành “the Bond girl”, từng nhận được lời đề nghị đóng một người Việt Nam.


Về phần của Brigitte, cô đã dẫn ra một cảnh quay tình cảm trong phim Zu “Thục Sơn” của đạo diễn Tsui Hark (Từ Khắc). Cô nói cô không hiểu tại sao cảnh quay đó lại bị cắt đột ngột như vậy. Cô tìm hỏi đạo diễn Tsui và ông nói với cô rằng ông không muốn đả động nhiều đến chủ đề này (chủ đề tình yêu) và thừa nhận là ông cũng không biết làm thế nào để xử lý nó. Leslie nhướn mày, và điều này cho thấy là anh ngạc nhiên như không tin được. Brigitte cho hay cô thích các bộ phim có nhiều cảm xúc và giàu tình cảm, cho dù đó là tình yêu thương của bậc cha mẹ, tình thân anh em, tình yêu đôi lứa hay tình cảm bạn bè … Rồi cô thông báo, “Các bạn sẽ có phim hay để xem vào năm sau, khi Leslie trở thành đạo diễn”. Một tràng pháo tay lớn nổi lên trong khi Leslie nói, “Mặc Brigitte thôi, chị ấy quảng cáo dữ quá rồi”.


Người chủ trì hỏi Brigitte về nền điện ảnh của Đài Loan và cô sẽ so sánh như thế nào giữa hai nơi. Brigitte trả lời bâng quơ (dường như cô không thạo lắm về điện ảnh Đài Loan dù cô xuất thân từ nơi này) rồi yêu cầu Leslie nói thêm giúp cô. Leslie với biểu cảm kỳ lạ đã hỏi lại “Em ư ? Điện ảnh Đài ???” (Leslie chưa từng tham gia phim Đài Loan). Nhưng anh cũng đóng góp ý kiến từ các trải nghiệm anh đã có được thông qua các chương trình TV của Đài. Anh nghĩ rằng người Đài Loan bảo thủ và thường cứng nhắc nguyên tắc hơn, trong khi người Hong Kong lại uyển chuyển hơn. Anh còn nhớ đến tình huống nguy hiểm Brigitte đã từng gặp phải trong những năm 80 khi ngành công nghiệp phim ảnh Đài bắt đầu bùng nổ, những siêu sao lớn như Brigitte bị xã hội đen uy hiếp bằng súng ống ngay trong phim trường, bị buộc phải đóng phim cho họ.


Người chủ trì hỏi Leslie rằng liệu anh nghĩ điện ảnh Hong Kong có còn tương lai ? (anh được yêu cầu nói tiếng Anh). Anh đáp “Vâng, chúng ta vẫn còn có cơ hội, vì người Hong Kong rất chăm chỉ và tài năng. Vẫn có những người mang trong mình lý tưởng và muốn làm nên những kỳ tích. Mặc dù hiện các nhà tài chính đã bỏ đi hết và chỉ sẵn lòng đầu tư lớn cho các dự án của Jackie Chan (Thành Long), chúng ta vẫn còn những con người với nhiều ý tưởng độc đáo, chúng ta có các diễn viên giỏi, vì thế nên chúng ta vẫn có cơ hội.” Brigitte cũng tỏ ra lạc quan về tương lai và hy vọng tình hình sẽ sớm được cải thiện.


Part 2

Phần thứ hai của buổi giảng tọa, người chủ trì bắt đầu hỏi Leslie, “Tôi muốn hỏi cậu một câu hỏi hàn lâm” (Leslie đã làm biểu cảm hoảng sợ ) “Kinh nghiệm làm việc của cậu cùng đạo diễn Wong Kar-wai là như thế nào ? Vì cả hai đều cùng tham gia phim “Ashes of Time”, chúng tôi muốn biết là thực ra các bạn có hiểu bộ phim này không ?” Hội trường vỡ ra cười.


Leslie bắt đầu nói, “Làm việc với Wong Kar-wai thực sự là một trải nghiệm đau khổ. Anh chàng này rất tài năng, rất giỏi. Anh có rất nhiều ý tưởng mà anh ấy sẽ không bao giờ hé lộ cho bạn biết. Mỗi một lần anh ấy sẽ trao cho bạn những chỉ dẫn tuyệt vời, sau đó bạn đi gặp anh ấy, và cố gắng để làm việc cùng anh thì ngay lập tức anh ấy lại thay đổi ý tưởng của mình. Anh ấy giống như một tay cầm cọ, một họa sĩ vậy. Trong tay anh luôn có vô vàn nguyên liệu tốt, bao gồm cả chúng tôi, chúng tôi cũng là những nguyên liệu tốt của anh ấy (khán giả rộ lên cười). Anh ta cầm cọ lên và sẽ bắt đầu phác thảo nhác cọ đầu tiên, rồi thì sau đó có lẽ anh sẽ quăng bỏ nó, và chúng tôi phải ngồi chờ đợi cho đến khi nhác cọ phù hợp cho bộ phim được chấp nhận. Có thể bạn sẽ phải đợi từ 3 đến 4 tháng. Đấy là một kiểu làm phim rất ích kỉ. (Ở đây, Brigitte gật đầu và nói “Tôi đồng ý, đúng là vậy”). Đặc biệt là trong thời điểm này, khi không ai có thể lãng phí một ngày trời bấm máy. Đó là một sự xa xỉ tốn kém khi phải bỏ đi hàng trăm ngàn đô la mỗi ngày, bởi vì, tôi có thể nói, đoàn làm phim có 40 người, rất nhiều người đang phối hợp làm việc cùng chúng tôi, các lái xe, rồi cơm trưa, cơm tối và rất nhiều các ngôi sao phải ngồi chờ chực. Vâng, đó là cảm giác của tôi. Anh ấy tài năng nhưng không ai hiểu nổi chính xác anh ấy muốn gì, bạn không thể nào biết được bạn đã làm được gì cho tới tận ngày cuối cùng, đó là khi bộ phim được trình chiếu.”


“Nói làm ví dụ, Andy Lau (Lưu Đức Hoa) đang rất giận anh chàng này. Anh ấy đã phải làm việc tại Wall City, một khu vực đổ nát với từng đàn chuột lớn chạy quanh, mà Andy Lau thì vô cùng sợ chuột. Anh ấy đã nhảy dựng cả lên để tránh lũ chuột. Anh ấy đã phải quay phim 3 tháng ròng trong tình trạng phòng ốc cao chưa đầy 5 ft rưỡi, bò trườn như thế này mỗi ngày. Andy Lau là một diễn viên rất chuyên nghiệp. Thế nên anh ấy đã rất giận dữ khi toàn bộ những thước phim đó đều bị lãng phí. Các bạn đã được xem bộ phim tuyệt vời này ("Days of Being Wild"). Các bạn có thấy cảnh phim nào của Andy Lau tại khu Wall City không ? Không phải không. Đó là cái cách Wong làm việc đấy. Anh ấy khởi động mọi thứ, rồi đột nhiên anh ấy nhận ra đó chính xác không phải là điều anh muốn, ngày hôm sau thế là lại bắt đầu mày mò cùng những scene cảnh mới. Vì vậy rất khó để nắm bắt anh chàng này.”


Và rồi đến lượt Brigitte Lin kể cho khán giả nghe trải nghiệm của riêng cô. Cô tiết lộ rằng cô và Joey Wong (Vương Tổ Hiền) là hai diễn viên đầu tiên được mời để làm phim "Ashes of Time", và Wong Kar-wai đã kể cho cô nghe một câu chuyện cực kỳ thú vị. Sau đó ít lâu Wong Kar-wai lại liên lạc với cô và bởi vì sự thành công của phim “Đông Phương Bất Bại” nên anh đã nảy sinh ra một ý tưởng khác trong đầu. Một lần nữa, cô lại được kể cho nghe một câu chuyện tuyệt vời khác xa câu chuyện đầu, và lần này dàn cast sẽ được mở rộng hơn, bao gồm cả Leslie, Maggie Cheung và 2 Tony. Cô đồng ý tham gia bộ phim và chờ đợi một thời gian dài trước khi đến lượt cô ra phim trường, và cô biết rằng Leslie lẫn Joey đang quay phim tại đâu đó được một thời gian rồi. Đột nhiên một ngày nọ cô được cho hay dự án “Ashes of Time” cần phải quay thêm một phim hài mừng Tết Nguyên Đán và yêu cầu toàn bộ dàn cast cùng tham gia bộ phim này. Brigitte đã nói rằng cô không giỏi đóng phim hài, đặc biệt là với những thể loại hài “điên cuồng” như thế , cô đã tìm đến Leslie để chia sẻ nỗi lo. Leslie an ủi cô hãy thư giãn và rằng bộ phim này cũng không có kịch bản trước . Cô bắt đầu kể một mẩu chuyển vui liên quan đến phân cảnh trong hang động. Nhà đạo diễn đã nói với cô là trong động sẽ có rất nhiều quái thú, gà, vịt và rằng cô sẽ mang thai với chúng … Cô đã rất shock khi nghe tin này, liền chạy đi hỏi Leslie sao chuyện lại thành ra như thế và cô phải làm thế nào đây . Leslie trả lời với một tiếng thở dài, “Thì cứ làm thôi !” Cô lại đi hỏi Joey Wong làm sao cô có thể đóng vai một phụ nữ mang thai với con vịt cho được ??!! Nhìn thấy cô lo cuống lên như vậy, đạo diễn đã không thể nhịn được cười và đành nói “Tôi chỉ đùa thôi mà, đừng nghiêm trọng quá !!”. Hóa ra là ông ấy chọc ghẹo cô. Khán giả đã thấy câu chuyện này rất hài hước.


Lúc này Leslie lại hỏi Brigitte về dự án đầu tiên của đạo diễn Wong cho bộ phim "Ashes of Time" (dự án ban đầu mà chỉ có Brigitte và Joey tham diễn), rằng liệu có khi nào cô được yêu cầu đóng vai Đông Tà và Joey đóng vai Tây Độc hay không. Brigitte trả lời là có thể lắm. Leslie muốn xỉu !!


Leslie lại tiếp tục nói, “Anh Abbott đã hỏi tôi là liệu tôi có hiểu bộ phim này không à. Anh đang đùa sao ? Dĩ nhiên là không hiểu rồi, làm sao mà chúng tôi hiểu được cơ chứ”. Leslie rõ ràng là đang đùa với khán giả, mọi người đều lăn ra cười rồi vỗ tay nhiệt liệt. Abbott liền hỏi Leslie về nhân vật Tây Độc của anh trong phim, đầu phim anh ta có râu nhưng cuối phim thì lại không có là vì sao. Leslie giải thích rằng ban đầu anh được yêu cầu đóng vai Đông Tà, anh đã cùng Wong Kar-wai quay những phần này trong 30 ngày tại Hong Kong. Sau đấy cả dàn cast đi đến vùng sa mạc Xian Xi quay phim để lấy khung cảnh đẹp. Rồi một ngày, Wong nói với anh “Tôi muốn anh đóng vai Tây Độc” vì anh ấy nghĩ nhân vật chủ đạo của bộ phim nên là Tây Độc. Thế là mọi tư liệu trong 30 ngày quay tại Hong Kong đều phải bỏ ngoại trừ cảnh mở đầu phim. Sau đấy Wong xoay sở để tìm cách sửa lại sai lầm. Leslie nhắc nhở khán giả rằng Wong là một người viết kịch bản cừ khôi, nên anh ấy có thể dễ dàng xoay chuyển các ý tưởng và viết lại các câu chuyện. Cuối cùng Wong kể cho anh nghe rằng Tây Độc quá đau khổ sau khi người yêu qua đời nên đã đốt trại, cạo râu rồi tìm đường trở lại Bạch Đà Sơn. Vậy là câu chuyện lại liền mạch và dính kết.


Leslie cho hay với tư cách một diễn viên, việc đương đầu với Wong Kar-wai là rất khó khăn vì anh ấy muốn luôn thay đổi. Anh sẽ không đưa cho bạn bất cứ kịch bản nào và chỉ đến ngày quay mới đưa cho bạn một tờ giấy. Sau đấy bạn sẽ ghi lại những gì mình được truyền đạt từ anh ra mặt giấy. Leslie nói các diễn viên luôn có một biểu đồ trong tâm tưởng. Ví dụ như khi câu chuyện chạm tới cao đỉnh thì họ sẽ giải phóng nhiều năng lượng hơn. Nhưng với cách làm phim của Wong Kar Wai, anh chỉ có thể mường tượng điều này giới hạn trong mỗi take quay rời rạc, “như thể anh ấy đang mưu đồ một chuyện gì đó”. Mặt khác Brigitte cũng cho hay cô cũng thích làm việc có kịch bản hơn vì như thế cô có thể chuẩn bị cho phần diễn của mình.


Part 3

Phần cuối của buổi nói chuyện là phần hỏi & đáp. Vì giới hạn của thời gian nên chỉ có 3 sinh viên được đặt câu hỏi. Người chủ trì nhấn mạnh “Không câu hỏi cá nhân nhé” (có một vài tiếng cười trong giảng đường)


Câu hỏi đầu tiền là về phim “Love Letter” của Peter Chan (Trần Khả Tân) tại Hollywood. Leslie cho đấy mà một sự khởi đầu tốt... Khi được hỏi anh nghĩ thế nào về Peter Chan anh đã nói rằng Peter là một người nhạy cảm và anh ấy có những lý tưởng, những tham vọng của riêng mình. Anh là một trong những tên tuổi đạo diễn trực thuộc UFO group. Mặc dù các bộ phim của anh thiên về thương mại, nhưng chúng vẫn truyền tải thông điệp tinh tế. Anh hy vọng Peter sẽ trở thành một nhà đạo diễn thành công tại Hollywood sau Ang Lee (Lý An), làm ra những bộ phim chất lượng như “Sense and Sensibility”.


Câu hỏi thứ hai là anh nghĩ thể loại phim nào sẽ kích thích và vực dậy thị trường một lần nữa. Leslie đã trả lời bất cứ bộ phim nào được làm với cả “trái tim” sẽ đều mang lại hiệu quả . “Nếu bạn làm một phim võ thuật, thì hãy làm một phim võ thuật tốt. Nếu bạn nghĩ các bộ phim lấy cảm hứng từ thập niên 60 đang là khuynh hướng, thì hãy làm nó một cách nghiêm túc !”. Rồi anh cũng cho một vài nhận xét về bộ phim nổi tiếng Điềm Mật Mật “Comrades: Almost a Love Story”, do Maggie Cheung và Leon Lai thủ diễn. Anh nói vì anh là một diễn viên nên anh thường xuyên chú tâm nhiều hơn cho từng phân cảnh. Anh đã chỉ là một sai phạm của một cảnh quay tại cảng Causeway: những vạch đôi vàng trên mặt đường chỉ có từ những năm 80, chứ không phải là vào những năm 60. Anh nói các nhà làm phim cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng và phải để tâm tới mọi chi tiết, dù là nhỏ nhất. Rồi anh đề cập tới thành công của bộ phim kinh phí thấp “Made in Hong Kong”. “Câu chuyện và các nhân vật vô cùng chân thật và sống động, tựa hồ như đấy là cuộc sống thực của họ, và khán giả bị làm cho cảm động bởi kịch bản cũng như diễn xuất của những con người trong dó. Khi có những bộ phim như thế này nữa xuất hiện, sự tự tin của chúng ta sẽ trở lại thôi”, Leslie nói. Người sinh viên hỏi Leslie rằng bộ phim nào anh đã diễn với tất cả trái tim mình. Anh trả lời anh nghĩ đó là “Farewell to My Concubine” (Bá Vương Biệt Cơ). Nhưng anh nghĩ đạo diễn Chen Kaige (Trần Khải Ca) đã có chút lưỡng lự khi động chạm đến vấn đề giới tính của phim. Đó là lý do vì sao ông cần đến Gong Li (Củng Lợi) để cân bằng mối quan hệ đồng tính, có lẽ để thị trường dễ chấp nhận nó hơn. Nhưng nhìn chung đó là một bộ phim hay .


Câu hỏi cuối cùng là về phim của Wong Kar-wai. Một sinh viên đã hỏi Leslie anh nghĩ đâu là bộ phim hay nhất của Wong. Và Brigitte đã trả lời ngay tắp lự, “Happy Together” (Xuân Quang Xạ Tiết). Cô cho màn diễn xuất của Leslie là xuất sắc và tiếc rằng anh không có thêm thời gian để thực hiện bộ phim này, nếu không bộ phim có thể còn tốt hơn nữa. Cô thực sự muốn được xem Leslie diễn thêm. Leslie cũng trả lời lựa chọn đầu tiên của anh là “Happy Together”. “Wong Kar-wai là người đầu tiên đã dám nói về chuyện đồng tính. Anh ấy cũng rất tinh xảo khi dẫn đắt câu chuyên về một cặp đôi đồng tính nhưng lại chẳng khác gì bất cứ cặp đôi nào trên đời này. Như tôi đã nói khi nãy, bất cứ khi nào bạn phát ngôn bằng “trái tim” của mình về “thế nào là tình yêu” thì nó sẽ luôn luôn đạt hiệu quả”, Leslie nói.


Buổi giảng tọa kết thúc sau phần hỏi-đáp, kéo dài trong khoảng 80 phút. Leslie và Brigitte Lin được tặng một ấn phẩm làm kỉ niệm. Quí bà người nước ngoài đến bên cạnh Leslie (tôi nghĩ là để cảm ơn anh) và anh đã hôn lên má bà. Các sinh viên bắt đầu rời đi trong khi một số nhân cơ hội đến xin Leslie chữ kí, một người thậm chí còn đem theo một tấm poster khổ lớn, và nó thành ra trông như thể một buổi kí tặng mini của Leslie vậy ^^ . Brigitte rời hội trường luận văn trong khi Leslie vẫn còn đang kí tặng cho các fan. Sau 10 phút Leslie cùng chụp một tấm hình tập thể với mọi người còn lại trong hội trường trước khi rời đi. Anh đi cùng người phụ nữ nước ngoài (các fan vẫn theo sau anh) và tiến ra ngoài bãi đậu xe.


Nguồn: blog.tianya.cn
Dịch: heobeo @ DAN

Thứ Hai, 22 tháng 8, 2011

Anita Mai Diễm Phương đã trách tôi thiên vị Leslie Trương Quốc Vinh

Sắp tới sinh nhật của hai người rồi...

Nguồn: Ming Pao Weekly, Issue # 1700, 9/6/2001
Bài báo này được viêt bởi Florence Trần Thục Phân (chị là quản lý của Leslie Trương Quốc Vinh khi anh còn sống)
E-trans: Daydreamer @ all-about-leslie.blogspot.com
Dịch: [D]uck@dienanh.net


Vượt ra khỏi Hồng Kông luôn là mong muốn của tôi để mở rộng hơn nữa thị trường ở nước ngoài cho các nghệ sĩ dưới mái nhà của chúng tôi, để cho sự nghiệp trong ngành giải trí của họ có thể đạt đến mức độ cao hơn và thu hút nhiều hơn những người hâm mộ ở hải ngoại. Tôi cũng hy vọng sẽ đưa văn hoá giải trí của Hồng Kông đến với khán giả Trung Quốc trên khắp thế giới để mang đến cho họ niềm hạnh phúc và làm nguôi đi nỗi nhớ nhà của họ.

Trong những năm 80, khi phim truyền hình Hồng Kông đã rất phổ biến ở nước ngoài, do đó nhiều người trong làng giải trí đã tới Singapore và Malaysia ..v..v..để biểu diễn trên sân khấu. Tuy nhiên, các địa điểm biểu diễn thường khá nhỏ và hầu hết các nghệ sĩ đã phải tổ chức biểu diễn trong các hộp đêm nên các buổi diễn này tương đối đơn giản. Phần lớn các buổi biểu diễn sử dụng băng ghi âm của các nhạc cụ âm nhạc hay các ban nhạc địa phương. Ngoài thị trường Đông Nam Á, tôi đã bắt đầu nỗ lực sắp xếp cho các nghệ sĩ của chúg tôi biểu diễn ở châu Âu, Bắc Mỹ và Úc….v….v…

Nghĩ lại những năm đó, cơ hội được biểu diễn ở nước ngoài là rất hiếm, vậy nên mỗi lần khi các ban nhạc và các vũ công biết được rằng sẽ có cơ hội ra nước ngoài biểu diễn thì họ đều đăng ký rất hăng hái. Mỗi người họ (bao gồm các ca sĩ, các ban nhạc và các thàn viên trong đoàn,.…) không hay mặc cả về thù lao, họ đơn thuần chỉ muốn có cơ hội đi ra nước ngoài. Làm việc ở nước ngoài khi đó và sau này là hai điều rất khác nhau bởi hiện nay, phần lớn các ban nhạc, các vũ công và cả những người làm hậu trường đều đã được đi rất nhiều nơi trên thế giới để biểu diễn nên việc ra nước ngoài làm việc với họ không còn mới mẻ gì nữa. Nếu số lượng các buổi biểu diễn quá ít, họ chỉ đơn giản sẽ từ chối hoặc có thể sẽ yêu cầu những điều kiện và hạn mức tốt hơn. Do đó, có một sự khác biệt rất lớn khi so sánh hiện tại với với quá khứ, cũng giống như trời và đất vậy.

Một cặp đối nghịch
Trong quá khứ, thị trường Trung Quốc không quá lớn, phần lớn các khán giả làm việc trong các nhà hàng ở Trung Quốc. Vì người ta không thể biểu diễn cho tới khi các khán giả kết thúc công việc của mình nên thời gian biểu diễn không thể bắt đầu cho tới sau 11 giờ rưỡi tối. Tại thời điểm đó, việc sản xuất của chúng tôi tương đối lớn kể từ khi chúng tôi đưa vào sử dụng ban nhạc, ánh sáng và các kĩ thuật âm thanh..v…v…mà chúng tôi đã sử dụng ở Hồng Kông. Các ca sĩ phải tự lo phần hoá trang và kiểu tóc của họ.


Leslie và Anita

Ở giai đoạn rất sớm, chúng tôi đã sắp xếp cho Leslie Trương Quốc Vinh và Anita Mai Diễm Phương biểu diễn cùng nhau trên sân khấu ở hải ngoại. Họ là một cặp đối địch nhưng nếu có một số sự kiện bất ngờ nổi lên thì họ lại che chở cho nhau, do đó đã xoay chuyển những mối nguy hiểm thành an toàn. Một lần, họ biểu diễn ở một nhà hát ở Anh quốc. Vì thời gian bố trí rất ngắn nên các hiệu ứng âm thanh rất nghèo nàn. Leslie, người luôn luôn đòi hỏi những tiêu chuẩn cao, đã yêu cầu phải luyện tập trước. Tuy nhiên, do không thể chấp nhận điều kiện âm thanh nghèo nàn đó nên anh đã đặt mic xuống và trở vào phía sau sân khấu. Sau khi Anita hoàn thành phần luyện tập của mình, chúng tôi đã đi đến phía sau sân khấu và nói ngọt với anh ta để anh ta tiếp tục luyện tập. Anita cũng đã giúp chúng tôi thuyết phục anh ta bằng cách nói “Âm thanh vừa mới được bố trí lại rồi và các hiệu ứng bây giờ đã khá tốt. Có thể chấp nhận được mà!”. Cuối cùng thì anh ta cũng đã hứa tiếp tục việc luyện tập và biểu diễn đêm đó.

Một lần khác, trong một hộp đêm ở Malaysia, khi Anita đang biểu diễn, một khán giả đã uống say và đã gây om sòm, cố nài lên sân khấu để hát cùng cô. Leslie ngay lập tức liền lên sân khấu giúp Anita từ chối yêu cầu của vị khán giả kia và đã hoàn thành phần biểu diễn tối hôm đó dùm cô. Cả hai người họ được biết đến như là những đối tác tốt nhất.

Một lần cách đây đã 10 năm, chúng tôi đã có nhiều niềm vui khi đến Australia. Đó là lần đầu tiên những nghệ sĩ Trung Quốc đặt chân lên sân khấu của Trung tâm giải trí Sydney để biểu diễn nhạc hội (ngày nay, nhiều nghệ sĩ Hồng Kông vẫn biểu diễn ở đây). Địa điểm này có chút tương tự như Hong Kong Coliseum. Nó có thể chứa mười nghìn người xem. Trong quá khứ, chỉ có các ca sĩ Mỹ mới có thể biểu diễn ở đây. Vì cơ hội được biểu diễn ở Australia là không nhiều nên nhiều người đã đồng ý mà không quan tâm thù lao họ nhận được là bao nhiêu. Họ chỉ muốn tham gia, giống như tham gia một chuyến du lịch trọn gói miễn phí. Lúc đó, những người biểu diễn đầu tiên Leslie Trương Quốc Vinh và Anita Mai Diễm Phương. Những ngôi sao khách mời khác gồm Lui Fong, Grasshoppers và Pearl Law. Michael Lai chịu trách nhiệm công việc hậu trường, Lai Hok Bun lãnh đạo ban nhạc lớn của anh cũng như các thành viên trong đoàn, và khách mời danh dự là Chan Chi Keung (anh chỉ tham gia cho vui)…v..v…Nhà tài trợ địa phương đã sắp xếp cho chúng tôi ở tại khách sạn Regent ở Sydney. Bên cạnh việc biểu diễn và luyện tập, chúng tôi đã đi thăm quan nhiều địa điểm hấp dẫn cũng như thưởng thức các món ăn địa phương. Ngoài công việc, tất cả mọi người đã có những thời gian thật sự tuyệt vời cùng nhau thưởng thức các món ăn và cảnh đẹp.

Lần chúng tôi đi biểu diễn ở Pháp, Anita đã chơi trốn tìm với vài nguời khách tham quan trong khu vườn của khách sạn và đột nhiên biến mất. Tất cả mọi người đều nghĩ rằng cô ấy đã trở về phòng của mình nên cả nhóm đã giải tán. Tuy nhiên, chúng tôi đã không thể tìm thấy cô ấy ở trong phòng nên đã quay lại khu vườn và đã phát hiện ra cô ấy đang nằm bất tỉnh trên một đám cỏ dày. May mắn là chúng tôi đã kịp tìm thấy cô ấy lúc đó.

Các nhà hàng tranh thủ những cơ hội
Trong những năm qua, khi biểu diễn ở châu Âu, nhiều nhà tài trợ vẫn thường sắp xếp cho nhóm của chúng tôi ăn trưa ở một số nhà hàng của họ. Hầu hết những lần như thế, các nhà hàng này đều muốn tranh thủ cơ hội. Họ tất nhiên quảng cáo trước về ngày giờ mà các nghệ sĩ sẽ xuất hiện (một số nơi thậm chí còn nói rằng các nghệ sĩ sẽ hát ở đó) để thu hút thêm nhiều khách hàng. Khi các nghệ sĩ tới nơi, họ đã phải bịa ra đủ mọi kiểu lý do để yêu cầu các nghệ sĩ hát trên sân khấu. Ở Pháp, chúng tôi đã có những kinh nghiệm sau đây. Họ muốn các ca sĩ lên sân khấu và nhận những món quà lưu niệm nhưng chúng tôi đã khẳng định rằng các ca sĩ sẽ nhận chúng khi đã rời khỏi sân khấu. Sau đó, họ xếp đặt cho người dẫn chương trình lên sân khấu giới thiệu và thậm chí bắt đầu chơi nhạc, may mắn là chúng tôi đã chuẩn bị mọi thứ nên khi nhạc đã bắt đầu chơi, Michael Lai lập tức lên sân khấu và bằng một cách khôi hài đã yêu cầu cho nhạc được dừng lại và rồi vui vẻ nhận lấy những món quà lưu niệm dùm các ca sĩ. Mặt khác, các ca sĩ đã đi tới lối vào, vẫy tay thể hiện sự cảm ơn của họ và rồi lập tức rời khỏi. Mặc dù nhiều lần, một thoả thuận đã được đưa ra trước khi tham dự các bữa ăn tối nhưng những điều này vẫn thường xuyên xảy ra trong quá khứ khi lưu diễn ở châu Âu và Hoa Kỳ vì biểu diễn ở những địa điểm đó hầu hết dựa rất nhiều vào các nhà tài trợ.
Trên thực tế, để sắp xếp cho cả nhóm người tới châu Âu, chỉ riêng vé máy bay và chỗ ở khách sạn đã mất một khoản tiền rất lớn. Các địa điểm biểu diễn lại không thể chứa quá nhiều khán giả cũng như giá vé không thể bán quá cao được.

Anita Mai Diễm Phưong thích nói theo quy tắc.
Tôi vẫn nhớ lần chúng tôi đi lưu diễn ở châu Âu, đó cũng là lần đầu tiên có nhà tài trợ. Để các nhà tài trợ giảm bớt các khoản chi tiêu, bên cạnh đó tôi cũng muốn các nghệ sĩ có chỗ ở tốt hơn nên tôi đã đồng ý việc dàn xếp để cho các nghệ sĩ và các thành viên còn lại trong đoàn ở tại hai khách sạn khác nhau và trên thực tế, cách này có thể khiến họ được chăm sóc thuận tiện hơn (giống như ở Hồng Kông, các nghệ sĩ sẽ ở khách sạn Regent và các thành viên còn lại trong đoàn thì ở khách sạn New World). Nhưng khi chúng tôi tới nơi, thói quen thường nói theo quy tắc của Anita lại được biểu lộ dữ dội. Cô khăng khăng đòi tất cả mọi người nên ở cùng một khách sạn. Vì nhà tài trợ đã trả tiền cho cả hai khách sạn nên trong hoàn cảnh đó, thay vì tiết kiệm được tiền, nhà tài trợ lại phải chi trả nhiều hơn. Và họ đã nổi cáu bởi họ đã tìm tôi để dàn xếp trước rồi và bởi xuất phát điểm của tôi là muốn tốt cho các nghệ sĩ. Thấy rằng không thể đòi được công bằng, Anita đã cảm thấy khó chịu nên đã không hợp tác với tôi sau đó nữa. Do đó, tôi đã để David tạm thời chăm sóc cô ấy trong khi tôi chỉ chăm sóc Leslie để tránh đặt cả hai bên ở những tình huống khó xử. Sau khi chúng tôi quay trở lại Hồng Kông, Anita đã trách tôi thiên vị và rằng tôi chỉ quan tâm tới Leslie mà bỏ rơi cô ấy. Thực tế, tôi quan tâm tới cả hai người họ và không thiên vị ai cả. Nhưng tôi đã phải làm như vậy để kiểm soát tình hình chung, tôi không thể đáp ứng theo được việc để tất cả mọi người đều được ở trong điều kiện tốt. Hôm nay, Anita đã trưởng thành, bên cạnh cô ấy là người quản lý của hai ca sĩ Ho Wan Sze và Pang King Chi, cô ấy chắc chắn sẽ hiểu được cách mà tôi đã từng làm để xử lý tình hình khi đó.


Florence và Leslie

Cuộc chiến của hai băng nhóm
Một lần khác khi chúng tôi đi lưu diễn ở Mỹ với Leslie, chúng tôi đã nghe được rằng ở đây đang có cuộc chiến giữa hai băng nhóm và chúng tôi gần như bị tác động bởi điều đó. Nhà tài trợ địa phương ban đầu thì rất nhiệt tình nhưng sau khi chúng tôi đến thì chỉ thấy ông ta xuất hiện được hai đến ba lần. Ông ta lo ngại rằng ai đó sẽ gặp phải sự cố và điều đó sẽ gây ra sự kinh hoàng trong chúng tôi, đó là lý do giải thích vì sao có ít sự tiếp xúc. Tôi đã ngồi với ông ta cùng xem trong suốt buổi biểu diễn. Sau đó khi chúng tôi tới Canada, chúng tôi mới được biết ngày mà chúng tôi biểu diễn ở Mỹ, vì nhà tài trợ kia sợ rằng kẻ thù của ông ta sẽ tới quấy nhiễu chúng tôi (thực tế là ông ta đã nhận được tin báo trước về điều này) nên có rất nhiều “bouncers” (những người được thuê để tống cổ những kẻ phá phách trong các quán rượu, rạp hát ở Mỹ) đứng canh gác ở trong và ngoài rạp hát, và nhiều vũ khí cũng đã được đặt trong nhà hát. Ông ta đã không cho chúng tôi bíêt trước điều này vì ông ta sợ rằng chúng tôi sẽ bỏ chạy. Tôi thực sự không thể tưởng tượng được Leslie có thể hát trong những tràng đạn dồn dập sẽ như thế nào. Tôi nghĩ rằng loại cốt truyện kiểu này chỉ có thể được tìm thấy ở những bộ phim điện ảnh.

***

Thứ Năm, 18 tháng 8, 2011

Tưởng nhớ Trương Quốc Vinh

1 bài hàn lâm :-s, phần dịch trước, "Tưởng nhớ Leslie - Days of Being Wild hay A Phi Chính Truyện"

Xin cảm ơn nguồn tài liệu của Boulevard_of_Broken_Dreams
Trích tuyển tập ACMI
Nguồn: lesliecheung.cc
Phỏng dịch: heobeo





Lời của Phillipa Hawker

Rũ bỏ, bị rũ bỏ … cuộc đời trên màn bạc của Leslie Cheung

Leslie Cheung là một trong những nam diễn viên được kính trọng nhất của điện ảnh – nhanh nhạy, khó nắm, một tài năng rực rỡ, chưa bao giờ mất đi vẻ đẹp trẻ thơ và thường xuyên diễm lệ đến nghẹt thở. Anh hợp tác cùng một số đạo diễn giỏi nhất của Hong Kong. Anh sở hữu một dãy các vai diễn băng qua vô số các thể loại: công tử ăn chơi, thanh niên nổi loạn, hồn ma, người tình, tay đểu cáng, sát nhân, kẻ thao túng, siêu trộm, nghệ sĩ, thư sinh, em trai trong sáng …

Leslie. Không cần đến cái họ. Bởi chỉ có một Leslie mà thôi. Tuy nhiên, vẫn có những tính từ dường như muốn gắn liền chúng với anh, cũng quen thuộc như là cái họ. Thanh tao. Hão huyền. Không phân định giới. Duyên dáng. Tuyệt đẹp. Một anh chàng bảnh bao ưu tú. Một nam danh ca. Một đóa thủy tiên tự yêu mình. Chúng là những bằng chứng cho những nỗ lực anh đã tạo ra, cho những diện mạo anh hướng tới. Leslie dường như là hiện thân của một cái đẹp tự làm nên nào đó: đôi khi anh thụ động, khiến lòng người thương cảm; đôi khi anh hoang dã, thanh tao trong cuồng nộ; cùng bộ cánh tuxedo khéo léo anh là bức tranh của sự sang trọng thần tượng. Anh sử dụng vẻ đẹp của anh sáng tạo, và anh cũng có thể tự tay mình lật đổ các hình tượng ấy. Anh có thể diễn vai trong sáng đầy thuyết phục, bởi anh có đường nét đẹp trông vụng về ngây thơ, và anh cũng rất thành thạo trong các phim hài hình thể. Nhưng những mâu thuẫn đã nhanh chóng nảy nở và không ngừng sinh sôi: Các nhân vật anh diễn thường xuyên được định nghĩa bằng chất mong manh thương tổn cũng như sự tuyệt mỹ đến từng cen-ti trước tấm gương soi. Quan sát gần hơn, qua các bộ phim, trong những phân cảnh cá nhân, tại những điểm nút tiến triển của màn trình diễn. Anh trở nên sắc cạnh hơn, u sầu hơn, khó nắm hơn. Rũ bỏ – là việc để cho ra đi, một sự tự phát, một sự buông lơi và thanh nhẹ cơ thể – đây thường xuyên là đặc điểm của các hình tượng anh diễn. Vậy nên có quá nhiều sự rũ bỏ: anh bỏ đi, hoặc bị người bỏ lại. Anh thường xuyên uể oải, vô trọng lượng, cơ thể anh qui phục, ủ bọc, và rồi sụp đổ duyên dáng tuyệt vời. Anh là một hình tượng triền miên xao lãng khi cần chú tâm, là hiện thân cho những mất mát, hoài phí và những hư ảnh mơ hồ, trốn chạy khỏi việc bị đóng khung định nghĩa, và trốn tránh cả lời thừa nhận với tình yêu.






Lời của Peter Kemp

Tư chất qua hình hài, tinh vi qua điệu bộ và xúc cảm can đảm trong con người phim ảnh của Leslie Cheung đã làm nên anh - một biểu tượng vĩnh viễn của điện ảnh thế giới...

Vốn dĩ chẳng có nhiều nàng tiên cá quyến rũ được màn bạc, đừng nói chi đến các nam ngôi sao, những con người có thể giải phóng những nhục cảm lạc thú lây nhiễm, những đam mê bị cấm đoán, những tồn tại mỏng manh - những vai diễn thường xuyên được khắc họa tuyệt đẹp bởi Leslie Cheung vĩ đại. Mặc dù sự nghiệp phim ảnh của anh được chứng nhận qua một lượng các vai diễn anh hùng hành động, có lẽ các nhân vật nam chính lãng mạn sai lầm vẫn sẽ là hình ảnh được nhớ đến nhiều nhất của người nghệ sĩ trình diễn xuất sắc này.

Khi anh thiếu chí khí, tươi đẹp, là một công tử hào hoa phải lòng một cô gái điếm trong những cơn mơ thuốc phiện, ôm chặt lấy Anita Mui từ phía sau trong bộ phim Rouge (1987) của đạo diễn Stanley Kwan, nỗi tuyệt vọng não nùng trong cái ôm dài đan chéo ấy giữa họ được cảm nhận rõ ràng qua động tác nhào tới róng riết khao khát đầy thổn thức của anh. Trong thiên sử thi Farewell My Concubine (1993) cuồn cuộn bi thương và hoa mỹ của Chen Kaige, anh đóng vai một nghệ sĩ yêu tha thiết Zhang FengYi, người huynh đệ đồng môn của mình, thái độ phong tư chẳng khác một vị vương phi không thể truất phế, qua phản ứng dữ dội và đôi khi là những phân cảnh diễn gợi cảm đến mất trí mơ hồ, anh cam chịu cao thượng (và cũng không cao thượng) khi đành chứng kiến người mình yêu thương tự nguyện gắn bó dài lâu với một người phụ nữ khác (là Gong Li tuyệt đẹp). Và trong kiệt tác phim óng ánh nhiều màu, tâm trạng đung đưa của Wong Kar Wai – Happy Together (1997), phân cảnh thân mật riêng tư khi cậu trai lăng nhăng phóng túng của Leslie Cheung dìu dắt kẻ-tử-vì-đạo-để-độc-chiếm-tình-nhân của Tony Leung hòa nhập vào điệu tango như sắp “điên vì tình” bên trong căn bếp lát gạch trắng, cùng những lôi kéo da thịt bạo liệt và những cái hôn dính chặt lấy nhau, những mong mỏi trông vọng... đã truyền tải hoàn hảo cho sức rung động lòng người, đồng thời vẫn có thể giúp ta tự nhiên cảm nhận điều bất khả trong mối quan hệ này.

Tư chất qua hình hài, tinh vi qua điệu bộ và xúc cảm can đảm trong con người phim ảnh của Leslie Cheung đã làm nên anh - một biểu tượng vĩnh viễn của điện ảnh thế giới, sánh ngang với Anna Magnani trong The Golden Coach (1952), Joan Fontaine trong Letter from an Unknown Woman (1948), Arletty trong Les Enfants du Paradis (1945), và với Lillian Gish về gần như mọi mặt.






Lời của Mike Walsh

Leslie từ lâu đã tiến xa trên con đường ấy, xa hơn hẳn bất cứ ai.

Chúng ta hãy dừng lại đôi giây để thương tiếc một ngôi sao. Cái tên Leslie có thể mở ra cả một cuốn phim – và điều này chẳng phải là nhỏ bé trong thế giới ngành công nghiệp giải trí – vì các ngôi sao luôn có điều gì đặc biệt vượt trội hơn cả mọi cuốn phim họ đã góp thành. Họ là phần minh chứng cho việc phim ảnh nắm giữ một chỗ đứng nhất định. Chúng ta luôn bận tâm xem họ sẽ mặc gì, họ ngủ với ai, và làm thế nào họ giữ gìn được mái tóc đẹp. Phim ảnh được làm nên là để tạo ra những con người gặt hái địa vị nổi bật như thế. Không cần biết màu của mái tóc cô dâu là gì, bộ phim (The Bride with White Hair) là chuyến hành trình phiêu lưu cùng bờ tóc hoang hoải của Leslie.

Và rồi, còn đó lãnh địa của nhạc pop Quảng Đông. Một phần tối cần thiết cho các ngôi sao là họ phải chiếm lĩnh các hình thức nghe nhìn khác nhau, đặc biệt là tại Hong Kong. Khi các vai diễn của Leslie trở nên nhã nhặn hơn thì cũng là lúc các màn trình diễn trên sân khấu của anh trở nên mãnh liệt hơn, đi từ hiện thân của Sharon Stone cho đến Thánh Jesus Christ. Các bộ phim cần nỗ lực đào xới mảnh đất rắn thương mại – khi ấy Leslie là kẻ phá tan những trơ trơ gỗ đá, Leslie là thầy thuốc chữa bệnh tinh thần đang vướng vào nghịch lý (!) - nhưng sân khấu lại cho phép Leslie được chia sẻ những đùa cợt của mình cùng công chúng địa phương ('Các bạn đều biết tôi thực sự là ai'). Các học giả như Richard Dyer đã nói rằng các ngôi sao là những con người có thể làm nên những nhân cách, những hình tượng, từ đó điều hòa hay làm dấy lên nhiều mâu thuẫn. Leslie từ lâu đã tiến xa trên con đường ấy, xa hơn hẳn bất cứ ai.






Lời của Richard Corliss

Anh chủ chốt là ở điều khác: một sự bác bỏ ngọt ngào dành cho những cứng nhắc và tự tôn nam tính ngạo mạn của điện ảnh Hong Kong.

Một người đồng tính trong một xã hội không chấp nhận đồng tính, anh chưa bao giờ thẳng thừng thừa nhận giới tính của mình, nhưng cũng không bao giờ cố tình lấp liếm nó, như nhiều ngôi sao Hong Kong khác đã làm. Anh còn quá một ông bầu, một kẻ khoa trương, theo cái cách của riêng anh - anh chọn làm một người kể nên sự thật. Anh hóa thân thành một ngôi sao tuồng cổ đồng tính héo hon trong Farewell My Concubine, rồi làm người tình cay độc của Tony Leung Chiu-wai trong Happy Together. Cả hai bộ phim này đều là những tác phẩm lớn trên tầm quốc tế và đem về tai tiếng thật không công bằng với anh. Anh đồng tính, phải, nhưng anh chủ chốt là ở điều khác: một sự bác bỏ ngọt ngào dành cho những cứng nhắc và tự tôn nam tính ngạo mạn của điện ảnh Hong Kong. Anh đã dạo chơi với một sự khác biệt. Điều này biến anh thành một ngôi sao nhưng cũng làm mờ đi tài năng của anh. Đấy là một món quà khi được trời sinh đẹp đẽ; và đấy là nghệ thuật khi biết làm thế nào cho các nhân vật trong phim vay mượn vẻ đẹp đó của mình. Là một diễn viên làm chủ sự tinh tế, Leslie ít khi cường điệu các cảm xúc, bởi vì anh biết camera nhìn thấy gì ở anh: anh biết chiếc máy quay yêu mình.




---------------------
** Leslie Cheung : Trương Quốc Vinh
** Anita Mui : Mai Diễm Phương
** Stanley Kwan : Quan Cẩm Bằng
** Chen Kaige : Trần Khải Ca
** Zhang FengYi : Trương Phong Nghị
** Gong Li : Củng Lợi
** Wong Kar Wai : Vương Gia Vệ
** Tony Leung : Lương Triều Vỹ

** Philippa Hawker : Nhà điểm phim tờ nhật báo Úc, cựu biên tập viên tờ Cinema Papers
** Peter Kemp : Nhà biên kịch
** Mike Walsh : Nhà giáo chuyên ngành điện ảnh/truyền hình của Đại học Flinders (Úc), viết báo cho tờ RealTime và Metro, xuất bản nhiều sách về du lịch và văn học, biên tập viên cộng tác lâu năm của thời báo The Velvet Light Trap
** Richard Corliss : Nhà báo văn hóa của tạp chí Time (Mỹ), cựu tổng biên tập phụ trách chuyên mục Điện ảnh

221 phim kinh điển của điện ảnh tiếng Hoa

Link: hi.baidu.com
Date: 08-04-2010


Hội Phê Bình Điện Ảnh Hồng Kông (Hương Cảng Điện Ảnh Bình Luận Học Hội) năm 2010 vừa bình tuyển và xuất bản ấn phẩm "200 phim kinh điển của điện ảnh tiếng Hoa" (tính đến thời điểm trước năm 2002). Cuốn sách này được thực hiện cẩn thận, công phu, tuy chỉ dừng lại ở con số 200 tác phẩm và có lẽ là còn một vài thiếu sót nhỏ nhưng nó đã làm hài lòng khá nhiều fan mê phim điện ảnh. Nếu mở rộng đến năm 2002, bản danh sách này sẽ đạt tới 211 phim, và nếu tính đến năm 2005, con số này sẽ lên đến 221 chứ không chỉ 200.


DANH SÁCH 221 PHIM KINH ĐIỂN TIẾNG HOA:


GIAI ĐOẠN 20s-70s

1923 劳工之爱情 - Lao Công Chi Ái Tình (Laborer's Love)
1927 西厢记 - Tây Sương Kí của đạo diễn Hầu Diệu (Romance of the Western Chamber)
1929 儿子英雄 - Nhi Tử Anh Hùng (My Son Was a Hero)
1931 恋爱与义务 - Luyến Ái Dữ Nghĩa Vụ (Love and Duty)
1933 小玩意 - Tiểu Ngoạn Ý (Little Toys)

1933 春蚕 - Xuân Tàm (Spring Silkworms)
1934 神女 - Thần Nữ (The Goddess)
1934 体育皇后 - Thể Dục Hoàng Hậu (Queen of Sports)
1934 桃李劫 - Đào Lí Kiếp (Plunder of Peach and Plum)
1935 都市风光 - Đô Thị Phong Quang (Scenes of City Life)

1935 大路 - Đại Lộ (Highway/ The Big Road)
1935 天伦 - Thiên Luân (Song of China)
1936 狼山喋血記 - Lang Sơn Điệp Huyết Kí (Bloodshed on Wolf Mountain)
1936 浪淘沙 - Lãng Đào Sa (Gold and Sand)
1936 新旧上海 - Tân Cựu Thượng Hải (The New and Old Shanghai)

1937 十字街头 - Thập Tự Nhai Đầu (Crossroads)
1937 夜半歌声 - Dạ Bán Ca Thanh (The Phantom Lover)
1937 马路天使 - Mã Lộ Thiên Sứ (Street Angel)
1937 慈母曲 - Từ Mẫu Khúc (Song of a Kind Mother)
1939 麻风女 - Ma Phong Nữ (The Leper Girl)

1939 少奶奶的扇子 - Thiểu Nãi Nãi Đích Phiến Tử (Young Mistress' Fan)
1941 铁扇公主 - Thiết Phiến Công Chủ (The Princess of Iron Fan)
1944 红楼梦 - Hồng Lâu Mộng (Dream of the Red Chamber)
1947 一江春水向东流 - Nhất Giang Xuân Thủy Hướng Đông Lưu (The Spring River Flows East)
1947 太太万岁 - Thái Thái Vạn Tuế (Long Live the Mistress!)

1947 松花江上 - Tùng Hoa Giang Thượng (Along the Songhua River)
1947 假凤虚凰 - Giả Phượng Hư Hoàng (Fake Phoenix)
1947 生死恨 - Sinh Tử Hận (Wedding in the Dream. Remorse at Death)
1948 小城之春 - Tiểu Thành Chi Xuân ((Spring in a Small Town)
1948 万家灯火 - Vạn Gia Đăng Hỏa (Myriads of Lights)

1949 三毛流浪记 - Tam Mao Lưu Lãng Kí (The Winter of There Hairs)
1949 哀乐中年 - Ai Nhạc Trung Niên (Miserable at Middle Age)
1949 乌鸦与麻雀 - Ô Nha Dữ Ma Tước (Crows and Sparrows)
1949 血染海棠红 - Huyết Nhiễm Hải Đường Hồng (The Blood Stained Begonia)
1949 珠江泪 - Châu Giang Lệ (Tears over the Pearl River)

1949 清宫秘史 - Thanh Cung Bí Sử (Sorrows of the Forbidden City)
1950 我这一辈子 - Ngã Giá Nhất Bối Tử (This Life of Mine)
1950 武训传 - Vũ Huấn Truyện
1950 细路祥 - Tế Lộ Tường
1950 摆错迷魂阵 - Bãi Thác Mê Hồn Trận (The Misarranged Love Trap)

1951 红菱血 - Hồng Lăng Huyết (Mysterious Murder)
1953 中秋月 - Trung Thu Nguyệt (Festival Moon)
1953 危楼春晓 - Nguy Lâu Xuân Hiểu (In the Face of Demolition)
1954 家家户户 - Gia Gia Hộ Hộ (Neighbours All)
1955 天仙配 - Thiên Tiên Phối (Marriage of the Fairy Princess)

1955 寒夜 - Hàn Dạ
1955 父母心 - Phụ Mẫu Tâm (Parents' Hearts)
1955 天长地久 - Thiên Trường Địa Cửu (Everlasting Love)
1956 李时珍 - Lí Thời Trân
1956 家 - Gia (The Family)

1957 群英会 - Quần Anh Hội (Triology of Swordsmanship)
1957 四千金 - Tứ Thiên Kim (Our Sister Hedy)
1957 曼波女郎 - Mạn Ba Nữ Lang (Mambo Girl)
1958 鲁班的传说 - Lỗ Ban Đích Truyền Thuyết (Legend of Lu Ban)
1958 提防小手 - Đề Phòng Tiểu Thủ (Beware of Pickpockets)

1958 笑笑笑 - Tiếu Tiếu Tiếu
1959 林则徐 - Lâm Tắc Từ (The Opium Wars)
1959 五朵金花 - Ngũ Đóa Kim Hoa (Five Golden Flowers)
1959 林家铺子 - Lâm Gia Phô Tử (The Lin Family Shop)
1959 蝶影红梨记 - Điệp Ảnh Hồng Lê Kí (Butterfly and Red Pear Blossom)

1960 野玫瑰之恋 - Dã Mai Khôi Chi Luyến (The Wild, Wild Rose)
1960 刘三姐 - Lưu Tam Thư (Third Sister Liu)
1960 杨门女将 - Dương Môn Nữ Tướng (Women Generals of the Yang Family)
1960 革命家庭 - Cách Mệnh Gia Đình (A Revolutionary Family)
1960 同命鸳鸯 - Đồng Mệnh Uyên Ương (The Eternal Love)

1960 难兄难弟 - Nan Huynh Nan Đệ (My Intimate Partner)
1960 错恋 - Thác Luyến
1961 大闹天宫 - Đại Náo Thiên Cung
1961 红色娘子军 - Hồng Sắc Nương Tử Quân (The Red Detachment of Women)
1962 李双双 - Lí Song Song

1962 红楼梦 - Hồng Lâu Mộng (Dream of the Red Chamber)
1962 三看御妹刘金定 - Tam Khán Ngự Muội Lưu Kim Định (Princess Falls in Love)
1963 梁山泊与祝英台 - Lương Sơn Bá Dữ Chúc Anh Đài (The Love Eterne)
1963 早春二月 - Tảo Xuân Nhị Nguyệt (February)
1963 农奴 - Nông Nô

1963 小兵张嘎 - Tiểu Binh Trương Ga (Little Soldier of ZhangGa)
1963 武则天 - Võ Tắc Thiên (Empress Wu)
1964 养鸭人家 - Dưỡng Áp Nhân Gia (Beautiful Duckling)
1965 舞台姐妹 - Vũ Đài Thư Muội (Stage Sisters)
1967 独臂刀 - Độc Tý Đao (One-Armed Swordsman)

1967 破晓时分 - Phá Hiểu Thời Phân
1967 龙门客栈 - Long Môn Khách Sạn (Dragon Gate Inn)
1967 路 - Lộ (The Road)
1967 英雄本色 - Anh Hùng Bản Sắc (Upright Repenter)
1967 碧眼魔女 - Bích Nhãn Ma Nữ (Green-Eyed Demon)

1967 玉女添丁 - Ngọc Nữ Thiêm Đinh
1968 冬暖 - Đông Noãn (The Winter)
1969 黄飞鸿浴血硫磺谷 - Hoàng Phi Hồng Dục Huyết Lưu Huỳnh Cốc (Huang Fei-hong in Sulphur Valley)
1970 路客与刀客 - Lộ Khách Dữ Đao Khách (From the Highway)
1970 侠女 - Hiệp Nữ (A Touch of Zen)

1970 董夫人 - Đổng Phu Nhân (Mrs Tung)
1971 再见阿郎 - Tái Kiến A Lang (Goodbye Darling)
1972 精武门 - Tinh Võ Môn (Fist of Fury)
1972 爱奴 - Ái Nô (Intimate Confessions of a Chinese Courtesan)
1972 猛龙过江 - Mãnh Long Quá Giang (Way of the Dragon)

1972 母亲三十岁 - Mẫu Thân Tam Thập Tuế
1974 再见,中国 - Tái Kiến, Trung Quốc (China Behind)
1975 洪拳小子 - Hồng Quyền Tiểu Tử (Disciples of Shaolin)
1976 天涯。明月。刀 - Thiên Nhai. Minh Nguyệt. Đao (The Magic Blade)
1976 半斤八两 - Bán Cân Bát Lưỡng (The Private Eyes/ Mr Boo)

1977 洪熙官 - Hồng Hi Quan (Shaolin Executioners / Executioners of Death)
1978 醉拳 - Túy Quyền (Drunken Master)
1979 归心似箭 - Quy Tâm Tự Tiễn (Anxious to Return)
1979 曙光 - Thự Quang (The Dawn)
1979 空山灵雨 - Không Sơn Linh Vũ (Raining of the Mountain)

1979 疯劫 - Phong Kiếp (The Secret)
1979 烂头何 - Lạn Đầu Hà (Dirty Ho)
1979 蝶变 - Điệp Biến (Butterfly Murders)
1979 行规 - Hành Quy (The System)


GIAI ĐOẠN 80s-2000s

1980 万人斩 - Vạn Nhân Trảm (Killer Constable)
1980 撞到正 - Tràng Đáo Chính (The Spooky Bunch)
1980 第一类型危险 - Đệ Nhất Loại Hình Nguy Hiểm (Dangerous Encounters of the First Kind)
1981 父子情 - Phụ Tử Tình (Father and Son)
1982 败家子 - Bại Gia Tử

1982 如意 - Như Ý
1982 骆驼祥子 - Lạc Đà Tường Tử (Rickshaw Boy)
1982 投奔怒海 - Đầu Bôn Nộ Hải (Boat People)
1982 烈火青春 - Liệt Hỏa Thanh Xuân (Nomad)
1983 乡音 - Hương Âm (Country People)

1983 风柜来的人 - Phong Quỹ Lai Đích Nhân (The Boys from Fengkuei)
1983 垂帘听政 - Thùy Liêm Thính Chính (Reign Behind a Curtain)
1983 小毕的故事 - Tiểu Tất Đích Cố Sự (Growing Up)
1983 打擂台 - Đả Lôi Đài (Flash Future Kung Fu)
1983 半边人 - Bán Biên Nhân (Ah Ying)

1983 一个和八个 - Nhất Cá Hòa Bát Cá (One and Eight)
1983 油麻菜籽 - Du Ma Thái Tử (Ah Fei)
1984 黄土地 - Hoàng Thổ Địa (Yellow Earth)
1984 人生 - Nhân Sinh (Life)
1984 玉卿嫂 - Ngọc Khanh Tẩu (Madam Yu Ching/ Jade Love)

1984 策马入林 - Sách Mã Nhập Lâm (Run Away)
1984 五郎八卦棍 - Ngũ Lang Bát Quái Côn (The 8 Diagram Pole Fighter)
1984 似水流年 - Tự Thủy Lưu Niên (Homecoming)
1984 省港旗兵 - Tỉnh Cảng Kì Binh (Long Arm Of The Law)
1984 上海之夜 - Thượng Hải Chi Dạ (Shanghai Blues)

1985 野山 - Dã Sơn (In The Wild Mountain)
1985 青春祭 - Thanh Xuân Tế (Sacrifice of Youth)
1985 绝响 - Tuyệt Hưởng (Swan Song)
1985 青梅竹马 - Thanh Mai Trúc Mã (Taipei Story)
1985 童年往事 - Đồng Niên Vãng Sự (The Time to Live and the Time to Die)

1985 黑炮事件 - Hắc Pháo Sự Kiện (Black Cannon Incident)
1985 僵尸先生 - Cương Thi Tiên Sinh (Mr Vampire)
1985 警察故事 - Cảnh Sát Cố Sự (Police Story)
1986 芙蓉镇 - Phù Dung Trấn (Hibiscus Town)
1986 英雄本色 - Anh Hùng Bản Sắc (A Better Tomorrow)

1986 恐怖分子 - Khủng Bố Phần Tử (The Terrorizers)
1986 盗马贼 - Đạo Mã Tặc (The Horse Thief)
1986 孙中山 - Tôn Trung Sơn
1986 美国心 - Mĩ Quốc Tâm (Just Like the Weather)
1987 老井 - Lão Tỉnh (Old Well)

1987 红高粱 - Hồng Cao Lương (Red Sorghum)
1987 地下情 - Địa Hạ Tình (Love Unto Waste)
1987 孩子王 - Hài Tử Vương (King of the Children)
1987 倩女幽魂 - Thiến Nữ U Hồn (A Chinese Ghost Story)
1987 龙虎风云 - Long Hổ Phong Vân (City on Fire)

1988 胭脂扣 - Yên Chi Khấu (Rouge)
1988 童党 - Đồng Đảng (Gangs)
1989 本命年 - Bản Mệnh Niên (Black Snow)
1989 悲情城市 - Bi Tình Thành Thị (A City of Sadness)
1989 喋血双雄 - Điệp Huyết Song Hùng (The Killer)

1990 血色清晨 - Huyết Sắc Thanh Thần (Bloody Morning)
1990 大太监李莲英 - Đại Thái Giám Lí Liên Anh (Li Lian Ying,The Im)
1990 阿飞正传 - A Phi Chính Truyện (Days of Being Wild)
1991 双旗镇刀客 - Song Kì Trấn Đao Khách (The Swordsman in Double Flag Town)
1991 大红灯笼高高挂 - Đại Hồng Đăng Lung Cao Cao Quải (Raise the Red Lantern)

1991 牯岭街少年杀人事件 - Cổ Lĩnh Nhai Thiếu Niên Sát Nhân Sự Kiện (A Brighter Summer Day)
1991 黄飞鸿 - Hoàng Phi Hồng (Once Upon a Time in China)
1991 心香 - Tâm Hương (True Hearted/ Heartstrings)
1992 阮玲玉 - Nguyễn Linh Ngọc (Center Stage/ The Actress)
1992 笑傲江湖之东方不败 - Tiếu Ngạo Giang Hồ Chi Đông Phương Bất Bại (Swordsman 2)

1992 92黑玫瑰对黑玫瑰 - 92 Hắc Mai Khôi đối Hắc Mai Khôi (92 Black Rose Vs. Black Rose)
1992 秋月 - Thu Nguyệt (Autumn Moon)
1992 青少年哪咤 - Thanh Thiếu Niên Na Tra (Rebels of the Neon God)
1992 秋菊打官司 - Thu Cúc Đả Quan Ti (The Story of Qiu Ju)
1993 蓝风筝 - Lam Phong Tranh (The Blue Kite)

1993 喜宴 - Hỉ Yến (The Wedding Banquet)
1993 霸王别姬 - Bá Vương Biệt Cơ (Farewell My Concubine)
1993 戏梦人生 - Hí Mộng Nhân Sinh (The Puppetmaster)
1993 儿子 - Nhi Tử của đạo diễn Trương Nguyên
1994 背靠背,脸对脸 - Bối Kháo Bối, Kiểm Đối Kiểm (Back To Back, Face To Face)

1994 二嫫 - Nhị Mô (Ermo)
1994 阳光灿烂的日子 - Dương Quang Xán Lạn Đích Nhật Tử (In the Heat of the Sun)
1994 多桑 - Đa Tang (Borrowed Life)
1994 重庆森林 - Trùng Khánh Sâm Lâm (Chungking Express)
1994 东邪西毒 - Đông Tà Tây Độc (Ashes of Time)

1995 民警故事 - Dân Cảnh Cố Sự (On the Beat)
1995 非常侦探 - Phi Thường Trinh Thám
1995 西游记 - Tây Du Kí (Journey to the West)
1996 甜蜜蜜 - Điềm Mật Mật (Comrades: Almost a Love Story)
1997 河流 - Hà Lưu (The River)

1997 美丽在歌唱 - Mĩ Lệ Tại Xướng Ca (Murmur of Youth)
1997 小武 - Tiểu Vũ (Xiao Wu/ The Pickpocket)
1997 一个字头的诞生 - Nhất Cá Tự Đầu Đích Đản Sinh (Too Many Ways to Be No. 1)
1997 香港制造 - Hương Cảng Chế Tạo (Made In Hong Kong)
1998 海上花 - Hải Thượng Hoa (Flowers of Shanghai)

1998 苏州河 - Tô Châu Hà (Suzhou River)
1999 枪火 - Thương Hỏa (The Mission)
2000 花样年华 - Hoa Dạng Niên Hoa (In the Mood for Love)
2000 站台 - Trạm Đài (Platform)
2000 卧虎藏龙 - Ngọa Hổ Tàng Long (Crouching Tiger Hidden Dragon)

2000 一一 - Nhất Nhất (Yi Yi)
2001 榴莲飘飘 - Lưu Liên Phiêu Phiêu (Durian Durian)
2001 鬼子來了 - Quỷ Tử Lai Liễu ((Devils on the Doorstep)
2001 少林足球 - Thiếu Lâm Túc Cầu (Shaolin Soccer)
2001 麥兜故事 - Mạch Đâu Cố Sự ((My Life as McDull)

2002 無間道 - Vô Gian Đạo (Infernal Affairs)
2003 盲井 - Manh Tỉnh (Blind Shaft)
2005 牛皮 - Ngưu Bì (Oxhide)
2005 孔雀 - Khổng Tước (Peacock)
2005 最好的時光 - Tối Hảo Đích Thời Quang (Three Times)

*****


Hơi bất ngờ là list trên lại không có Happy Together . Tham khảo thêm, click vào link ở đây !!!

Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2011

MOONLIGHT EXPRESS 912.2011: LESLIE’S BIRTHDAY !


Lời nhắn nhủ từ fan Leslie, Red Mission cho tới ...Việt Nam ^O^

Vậy là chúng ta lại đang rục rịch chuẩn bị mừng một ngày sinh nhật mới cho "ông già", sinh nhật lần thứ 55 của Leslie ^^. Được biết sinh nhật của anh năm nay : ngày 12 tháng 9 năm 2011 rơi vào đúng dịp Tết Trung Thu, mồng 15 tháng 8 âm lịch. Theo phong tục truyền thống từ hàng ngàn năm nay của người Trung Hoa, Tết Trung Thu là dịp gia đình đoàn tụ sum vầy, giữa đêm rằm thì dọn cỗ bánh hoa quả ra vườn cùng ngồi thưởng nguyệt ngắm trăng, nhịp phách rước đèn, múa lân múa phượng, người nào cao nhã thì đối ẩm ngâm thơ. Túm lại đây là khoảng thời gian khi các vụ mùa đã gần xong chỉ còn chờ tay người thu hái, khí trời trong mát và trăng ngà lung linh, là lúc cho mọi người giữa chốn nhân gian được tận hưởng niềm vui bên gia đình, người thân, bè bạn...

Với ý nghĩa đó, Red Mission năm nay cũng đãi tiệc để các fan Leslie có một dịp được ngồi ôn lại những kỷ niệm vui vẻ, hạnh phúc với người xưa. Để phù hợp với bầu không khí lễ hội mùa thu, chủ đề của bữa tiệc năm nay cũng dựa vào một bộ phim của Leslie có liên quan đến ánh trăng, đó là Moonlight Express (Đồng Thoại Tinh Nguyệt 1999), và dĩ nhiên các bạn ấy sẽ trình chiếu lại bộ phim này để thưởng thức cùng nhau. Vì mọi người ở đây chắc không ai có đủ điều kiện và thời gian bay sang Hong Kong dự tiệc cùng "Hội Đỏ", nếu các bạn có lòng và vẫn nhớ đến anh thì xin vào ngày 12 tháng 9 sắp tới, hãy cùng nhau xem lại bộ phim này, hay nghe lại một bản soundtrack của phim, tìm một video clip fan-made liên quan đến phim coi như thay lời chúc mừng sinh nhật Ca Ca nhé Hãy cùng gửi 1 chút lãng mạn ấm cúng và ý nghĩa này đến cho Leslie, vì Ca Ca của chúng ta đang ở trên bầu trời cùng với trăng và sao đó

whitedaisy


Moonlight Express Tribute


Giới thiệu phim Moonlight Express 1999



Tựa tiếng Anh: Moonlight Express

Tựa tiếng Hoa: Tinh Nguyệt Đồng Thoại

Năm ra mắt: 1999

Đạo diễn: Daniel Lee Lý Nhân Cảng

Diễn viên:

Leslie Trương Quốc Vinh
Takako Tokiwa
Michelle Dương Tử Quỳnh
...


Phim là sản phẩm hợp tác giữa Nhật và Hồng Kông. Takako Tokiwa được mệnh danh là "Nữ hoàng truyền hình Nhật", và là một fan của Leslie. Bộ phim này do Tokiwa khởi xướng trong một lần cô cho người quản lý hay cô đã mệt mỏi với việc đóng phim và có ý muốn về hưu. Người quản lý liền hỏi, liệu có điều gì có thể vực dậy tinh thần cho cô không, hay cô muốn đóng cặp với ai không... và Takako đã trả lời "Chỉ có một người. Anh ấy là Leslie Cheung" Thế là Moonlight Express bắt đầu được lên kế hoạch phác thảo.

Trong phim Tokiwa đóng vai Hitomi, một cô gái Nhật xinh đẹp sang ghé thăm Hồng Kông vì đang có chuyện buồn về Tetsuya, vị hôn phu của cô vừa mới đột ngột qua đời trong một tai nạn xe hơi thảm khốc. Cô muốn một lần được ngắm thành phố về đêm như lời Tetsuya trước đây từng hứa hẹn. Còn Leslie đóng vai Karbo (Gia Bảo), một cảnh sát nằm vùng đang điều tra một tổ chức tội phạm buôn bán ma túy. Trong một dịp tình cờ Hitomi đi thăm văn phòng làm việc của Tetsuya, Hitomi và Karbo đã chạm mặt nhau. Hitomi ngỡ ngàng khi nhận ra Karbo quá giống với Tetsuya (mà kỳ thực hai vai nỳ đều do ca diễn ) và tìm cách đuổi theo anh. Tuy thế, Karbo lại là người thô lỗ mạnh bạo và bí ẩn, chứ ko dịu dàng đầy chăm sóc như Tetsuya...














Nguồn ảnh: Tổng hợp